Thời đại Hùng Vương có nhiều truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt. Ngoài ra, các câu chuyện truyền thuyết còn thể hiện về văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
“Tứ bất tử” là một huyền thoại về việc nhân dân ta tôn vinh và thờ phụng “bốn vị thánh không bao giờ chết”. Trong 4 vị thánh dân gian tôn thờ, thời Hùng Vương đã có 3 tạo nên những giá trị truyền thống về lòng yêu nước, tính đoàn kết, lòng hiếu thảo, …
Thánh Tản Viên ( Sơn Tinh) - truyền thuyết: “Sơn Tinh Thủy Tinh”
Vua Hùng thứ 18 có một Công chúa đã đến tuổi cập kê, rất xinh đẹp tên là Mỵ Nương. Vua mới ban truyền trong nhân gian tìm nhân tài kén làm phò mã. Vua nước Tây Âu mang cau vàng trầu bạc đến dạm hỏi. Vua Hùng bèn hỏi ý các Lạc Hầu. Họ đáp: “Vua Tây Âu là người hung bạo, lại tuổi già, hình dạng xú quái, làm sao xứng với Mỵ Nương được”. Vua y theo Lạc Hầu mà làm, vì thế mà Văn Lang và Tây Âu hiềm khích từ đó.
Sau có hai chàng trai đến xin hỏi cưới. Cả hai đều rất tài giỏi. Một là Sơn Tinh (Thần Núi Tản Viên – Thánh Tản), hai là Thủy Tinh (Thần Nước). Sơn Tinh chỉ tay đến đâu núi rừng mọc lên đến đấy, muông thú đầy đàn. Thủy Tinh vẫy tay thì nước dâng lên cao, ba ba, thuồng luồng nổi đầy mặt nước.
Nhà vua không biết nên chọn ai, bèn quyết định chỉ gả Mỵ Nương cho người nào đến trước với sính lễ là một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.

Hôm sau, trời vừa hửng sáng, Sơn Tinh đã đến trước cổng thành với tất cả lể vật cầu hôn công chúa. Vua Hùng rất mừng bèn gả Mỵ Nương cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến trễ, và ngỡ ngàng khi biết Mỵ Nương đã theo chồng là Sơn Tinh. Thần lập tức đuổi theo và kêu binh tướng đánh Sơn Tinh để đòi lại Mỵ Nương.
Hai thần đánh nhau trời long đất lở. Thủy Tinh làm phép dâng nước định dìm chết Sơn Tinh, Sơn Tinh làm phép cho núi dâng cao cản nước. Thủy Tinh càng làm nước dâng cao, Sơn Tinh càng làm núi mình cao hơn. Cuối cùng Thủy Tinh đánh không lại, chịu thua. Từ đó, Sơn Tinh và Mỵ Nương sống vui vẻ bên nhau.
Tuy nhiên, hàng năm cứ vào khoảng tháng 7 âm lịch, Thủy Tinh lại nhớ đến thù xưa và dâng nước lên đánh Sơn Tinh.
Sơn Tinh – Thủy Tinh là một truyền thuyết nổi tiếng, lý giải về hiện tượng lũ lụt và chống lại lũ lụt hàng năm của người Việt Nam xa xưa.
Phù Đổng Thiên Vương - truyền thuyết: “Thánh Gióng”
Đời (vua) Hùng Vương thứ Sáu, nước Tàu ở phía bắc chỉ muốn sang chiếm nước Nam ta. Vua Hùng hiện ra dạy sai người đi khắp nước mời thần xuống giúp chống giặc.
Bấy giờ ở làng Phù Đổng, tỉnh Bắc Ninh ngày nay, có một người đàn bà đã 60 tuổi. Một hôm bà ra đồng ruộng thấy có một vết chân rất to lớn, bà đặt chân vào thì khi về nhà bà có thai. Bà sinh được một con trai và đặt tên là Gióng.
Gióng lên ba tuổi mà không biết nói.
Một hôm vua Hùng sai người đi tìm người tài giỏi ra đánh giặc. Gióng tự nhiên nói với mẹ mời sứ giả đến. Gióng bảo sứ giả về đúc một con ngựa sắt và một thanh gươm sắt, đưa đến cho chàng đi giết giặc. Bấy giờ Gióng vươn vai thành người lớn, ăn biết bao nhiêu cơm, thịt cũng không no, mặc quần áo rộng cỡ nào cũng thấy chật.

Sứ giả về tâu lại sự việc với vua. Khi đã đem ngựa và gươm sắt đến, Gióng đội mũ, cầm gươm phóng lên ngựa sắt, xông ra trận như bão táp, đi đến đâu Gióng cũng chém giặc như chém cỏ rác. Khi gươm bị gãy, Gióng nhổ các bụi tre bên đường quăng ném vào quân địch. Đánh tan giặc, Gióng thẳng bay lên núi Sóc, trút bỏ quần áo lại rồi bay thẳng lên rời.
Ngày nay còn thấy các hồ ao là dấu vết chân ngựa sắt để lại. Khu rừng giặc bị đốt cháy còn mang tên là rừng Cháy. Người dân lập miếu thờ Gióng gọi là thánh Gióng đã hoá thân cứu dân Việt.
Chử Đồng Tử: vị thánh của lòng hiếu thảo
Theo truyền thuyết vào thời Hùng Vương thứ 18 ở làng Chử Xá, phủ Khoái Châu có một người là Chử Cù Vân cùng vợ là Bùi Thị Gia, ăn ở nhân đức, sinh được người con trai rất khôi ngô đặt tên là Chử Đồng Tử. Năm Đồng Tử 13 tuổi, mẹ mất, nhà lại gặp hỏa hoạn nên gia tài khánh kiệt, chỉ còn một cái khố vải, khi có việc ra ngoài cha con thay nhau dung.
Chẳng bao lâu Cù Vân bị bệnh, lúc hấp hối dặn lại con rằng: “ Cha chết đi, con giữ lại cái khố mà che than, cho thiên hạ khỏi chê cười. Con cứ tang trần cho cha cũng được”. Chử Đồng Tử không nỡ để cha chết trần, lấy khố niệm cho cha. Từ đó, Đồng Tử không có gì che than, ngày ngày lúc vắng ra song kiếm cá, có người qua lại thì ngâm mình xuống nước.
Tiên Dung, con gái vua Hùng đã đến tuổi cập kê nhưng nàng khước từ nhiều lạc tướng, lạc hầu tới cầu hôn, chỉ thích đi đây đó chu du. Năm nào cũng vậy, khi mùa xuân đến, nàng thường đi thuyền dong chơi dọc sông Nhị Hà ra biển. Lần ấy, thuyền đến bãi cát ven sông, thấy cảnh đẹp, Tiên Dung bèn cho dừng thuyền vây màn trướng tắm, đúng nơi Chử Đồng Tử ở truồng đang nấp dưới lớp cát. Cho là Nguyệt lão xe duyên, Tiên Dung bèn cùng Chử Đồng Tử kết duyên vợ chồng.

Vua Hùng nghe tin con gái lấy kẻ nghèo hèn, nổi giận không nhận là con nữa. Tiên Dung thấy vậy sợ không dám về, ở lại cùng Chử ĐỒng Tử, mở bến chợ, lập phố xá. Chỗ ấy trở thành một nơi đô hội, phú thương ngoại quốc tới buôn bán tấp nập. Được một thời gian, hai người bỏ hết giàu sang đến bộ Hoài Hoan theo học đạo với cao sĩ Phật Quang, lên núi lập am Quỳnh, quyết chí tu hành. Phàm nơi nào dân chúng đói khổ, bệnh tật, hai người đều tìm đến giúp đỡ.
Sau Chử Đồng Tử có thêm người vợ thứ là Tây Nương. Tiếng đồn về lòng nhân đức, sự giàu sang của vợ chồng Chử Đồng Tử- Tiên Dung- Tây Nương tới tai vua Hùng. Vua cho là họ có mưu đồ làm phản, sai quân tới đánh. Chử Đồng Tử- Tiên Dung không dám chống cự, chờ chịu tội. Nửa đêm, bỗng nhiên gió nổi sấm rền, cả nhà cửa và người, vật trong chốc lát cùng bay lên trời, để lại một khoảng đầm rộng.
Người đời sau gọi bãi cát Chử Đồng Tử vùi thân là bãi Tự Nhiên, đầm nước nơi vốn là lâu đài của Chử Đồng Tử- Tiên Dung “hóa” về trời là đầm Nhất Dạ, chợ Đồng Tử - Tiên Dung lập là chợ Thám (hay chợ Hà Lương). Dân chúng lập đền thờ Đồng Tử ở nhiều nơi, xưng tụng là Chử Tiên hoặc Chử Đạo Tổ.
Đền thờ chính đặt tại thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu. Hàng năm, từ ngày 10 đến 16 tháng 3 âm lịch (nay đổi từ ngày 10 đến 12 tháng 2 âm lịch) là ngày hội dâng hương, khách thập phương tới lễ bái rất đông. Lễ hội Đa Hòa- Dạ Trạch là lễ hội tình yêu dân gian độc đáo của nước ta.